Lý Thường Kiệt (1019 – 1105) là một danh tướng, nhà chính trị kiệt xuất của nhà Lý, Đại Việt. Ông nổi tiếng với tài năng quân sự và đóng vai trò quan trọng trong các cuộc kháng chiến chống Tống và Chiêm Thành, bảo vệ vững chắc nền độc lập của dân tộc.
Tiểu sử:
- Tên thật: Ngô Tuấn.
- Nơi sinh: Làng An Xá, huyện Quảng Đức, phủ Thái Hòa, kinh thành Thăng Long (nay thuộc Hà Nội).
- Gia đình: Cha là Sùng Tiết tướng quân Ngô An Ngữ, mẹ là Hàn Diệu Chi.
- Thời gian làm quan: Trải qua ba triều vua Lý: Thái Tông, Thánh Tông, và Nhân Tông.
- Chức vụ cao nhất: Thái úy, tước Việt Quốc công.
- Nổi bật với:
- Chinh phạt Chiêm Thành (1069): Lý Thường Kiệt được cử làm tướng tiên phong, lập công lớn và được ban họ Lý.
- Đánh phá 3 châu Khâm, Ung, Liêm của nhà Tống (1075-1076): Hành động này khiến tên tuổi ông nổi danh ở cả Đại Việt và Tống.
- Chỉ huy cuộc kháng chiến chống Tống (1077): Đánh bại quân Tống trên phòng tuyến sông Như Nguyệt, góp phần quan trọng vào việc giữ vững độc lập dân tộc.
- Tác phẩm nổi tiếng: Bài thơ “Nam quốc sơn hà” (Sông núi nước Nam) được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam, ra đời trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Tống.
- Văn bia chùa Linh Xứng, Thanh Hóa: Ca ngợi tài đức và công lao của Lý Thường Kiệt trong việc trị nước, yên dân.
- Mất: Năm 1105, hưởng thọ 86 tuổi.
Lý Thường Kiệt – một nhân vật lịch sử kiệt xuất của dân tộc Việt Nam
Lý Thường Kiệt họ Ngô tên Tuấn, tự là Thường Kiệt, sinh năm Kỷ Mùi 1019, quê ở phủ Thái Hoà, thành Thăng Long (Hà Nội). Từ nhỏ, Ông đã có chí hướng, ham đọc sách, say sưa nghiên cứu binh thư, luyện tập võ nghệ. Ông có tài văn, võ; Năm 23 tuổi được bổ nhiệm làm quan theo hầu vua Lý Thái Tông. Trải qua 3 triều vua: Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Ông có nhiều công lao trong việc chống Tống bình Chiêm, đóng góp xây dựng đất nước phồn vinh.
Năm 1061, các tù trưởng ở miền Thanh Hoá, Nghệ An nổi lên quấy rối, chống lại triều đình. Vua Lý Thánh Tông cử Ông giữ chức Kinh phòng sứ, sau một thời gian Ông đã đem lại trật tự yên vui cho miền này. Vua rất quý Ông và ban cho Quốc tính. Từ đó, Ông mang họ Lý. Lịch sử cũng đã lưu lại tư tưởng quân sự vô cùng táo bạo và thần tốc của Ông: “Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của giặc”. Ông đã chỉ huy quân đội nhanh chóng đánh chiếm hai Châu Khâm, Liêm, rồi hạ thành Ung Châu của giặc Tống, phá tan các vị trí tập kết quân và lương thảo chuẩn bị xâm lược nước ta.
Tháng 4 năm 1076 , Ông rút quân về lập phòng tuyến sông Cầu. Tại khúc sông Như Nguyệt thuộc phòng tuyến này, ở vào lúc gay go nhất, Ông đã làm một bài thơ bất hủ, cổ vũ tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân dân ta. Bài thơ khẳng định quyền độc lập dân tộc tự chủ thiêng liêng của Tổ quốc. Bài thơ đã đi vào lịch sử của dân tộc ta như một bản tuyên ngôn độc lập thứ nhất :
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư,
Như hà nghịch lỗ, lai xâm phạm,
Nhữ đẵng hành khan thủ bại hư”.
Năm 1164, nhà Tống thừa nhận nước ta là một nước riêng biệt.
Năm Ất Dậu 1105, Lý Thường Kiệt mất, Ông thọ 86 tuổi, đựoc truy tặng Kiểm hiệu Thái Uý Việt Quốc Công.