Tiểu sử Đinh Bộ Lĩnh – Vua Đinh Tiên Hoàng

Tiểu sử Đinh Bộ Lĩnh – Vua Đinh Tiên Hoàng

Đinh Bộ Lĩnh, còn được gọi là Đinh Tiên Hoàng, là một anh hùng dân tộc, người đã có công dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước và sáng lập ra nhà nước Đại Cồ Việt, nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên của Việt Nam sau thời kỳ Bắc thuộc.

Tiểu sử:

  • Nguồn gốc:Đinh Bộ Lĩnh sinh ngày 15 tháng 2 năm Giáp Thân (924) tại thôn Kim Lư, làng Đại Hữu, châu Đại Hoàng (nay là xã Đại Hoàng, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình). 
  • Gia đình:Cha ông là Đinh Công Trứ, nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức Thứ sử Hoan Châu. 
  • Thuở nhỏ:Ông sống cùng mẹ ở Đàm Gia, thường cùng trẻ chăn trâu chơi trò đánh trận, lấy bông lau làm cờ. 
  • Nổi tiếng với tài chỉ huy:Dù còn nhỏ, Đinh Bộ Lĩnh đã thể hiện tài năng chỉ huy, được bạn bè và dân làng kính phục, tôn làm Tù trưởng. 

Sự nghiệp:

  • Dẹp loạn 12 sứ quân:Sau khi Ngô Quyền mất, đất nước rơi vào cảnh loạn lạc, 12 sứ quân nổi lên cát cứ. Đinh Bộ Lĩnh đã tập hợp lực lượng, từng bước đánh dẹp 11 sứ quân, thống nhất đất nước. 
  • Lên ngôi Hoàng đế:Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. 
  • Xây dựng nhà nước Đại Cồ Việt:Đinh Tiên Hoàng đã xây dựng một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền, với bộ máy chính quyền hoàn chỉnh, củng cố nền độc lập, tự chủ của đất nước. 

Cuối đời:

  • Đinh Tiên Hoàng và con trai là Đinh Liễn bị sát hại trong cung vào năm 979. 
  • Mặc dù qua đời sớm, nhưng Đinh Bộ Lĩnh đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử, được xem là người mở đường cho nền độc lập, thống nhất của dân tộc. 

Ý nghĩa lịch sử:

  • Đinh Bộ Lĩnh là người có công lớn trong việc chấm dứt thời kỳ loạn lạc, thống nhất đất nước sau hơn 1000 năm Bắc thuộc.
  • Ông là vị Hoàng đế đầu tiên của Việt Nam sau thời kỳ Bắc thuộc, đặt nền móng cho sự phát triển của các triều đại phong kiến sau này.
  • Việc xây dựng nhà nước Đại Cồ Việt của Đinh Tiên Hoàng đã khẳng định vị thế độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam. 
Xem thêm  Thời kỳ phong kiến phương Bắc đô hộ lần thứ hai (43-542)

Thân thế và sự nghiệp của Đinh Bộ Lĩnh

Vua Đinh Tiên Hoàng thuở nhỏ có tên là Đinh Bộ Lĩnh, sinh ngày rằm tháng Hai năm Giáp Thân (924) ở thôn Kim Lư, làng Đại Hữu, châu Đại Hoàng ( nay là thôn Văn Bòng, xã Gia Phương, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Thân phụ là Đinh Công Trứ làm quan Thứ sử Hoan Châu (Nghệ An).

Cha mất sớm, Đinh Bộ Lĩnh theo mẹ là Đàm Thị về quê, nương thân với chú ruột là Đinh Dự ở chăn trâu. Ông thường cùng nhóm trẻ chăn trâu bẻ hoa lau làm cờ, lập trận giả đánh nhau, tỏ rõ có tài chỉ huy. Bọn trẻ thường khoanh tay làm kiệu để rước ông như nghi vệ thiên tử.

            Đến tuổi trưởng thành vốn là người có chí khí khác thường, thấy đất nước đang lâm vào cơn hỗn loạn, Đinh Bộ Lĩnh chiêu tập trước hết là các bạn thuở cờ lau tập trận, sau đến các nghĩa sĩ quanh vùng. Bấy giờ trong nước loạn lạc, sử gọi là loạn 12 sứ quân. Nhờ thông minh mưu lược có khí phách, Đinh Bộ Lĩnh dựng cờ dấy nghĩa, mong lập nghiệp lớn, dân quanh vùng theo về rất đông.

Biết lực lượng của mình còn mỏng, Đinh Bộ Lĩnh sang xin theo sứ quân Trần Lãm (tức Trần Minh Công) ở Bố Hải Khẩu nay thuộc tỉnh Thái Bình.Thấy Đinh Bộ Lĩnh là người khôi ngô, có chí khí, có tài thao lược, lại là con trai của Đinh Công Trứ, người bạn đồng liêu, Trần Lãm mến tài gả con gái cho. Khi tuổi cao sức yếu Trần Lãm giao toàn bộ binh quyền cho Đinh Bộ Lĩnh. Đinh Bộ Lĩnh tiếp tục xây dựng lực lượng, thu phục nhân tài, phất cờ hiệu triệu dân chúng, đánh dẹp các sứ quân, đánh đâu thắng đó, uy danh lừng lẫy.

Ba quân tướng sĩ tôn vinh ông là Vạn Thắng Vương. Chỉ trong vòng một năm, Đinh Bộ Lĩnh đã dẹp yên 12 sứ quân, bốn phương ca khúc khải hoàn, non sông thu về một mối, chấm dứt thời kì loạn lạc.

Xem thêm  Thời kỳ Nhà Tây Sơn (1778-1802)

            Năm Mậu Thìn (968) Vạn Thắng Vương lên ngôi hoàng đế hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng Đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt (Nước Việt to lớn), đóng đô ở Hoa Lư (nay là xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình). Nhà vua cho đúc tiền đồng “Thái Bình Hưng Bảo”, đây là đồng tiền xưa nhất của nước ta. Ông còn xây dựng kỉ cương, đặt các luật lệ để yên dân.

            Vào đêm trung thu rằm tháng Tám năm Kỷ Mão (979) Đại Thắng Minh Hoàng Đế băng hà,được triều thần tôn là Tiên Hoàng Đế. Đinh Tiên Hoàng tuy ở ngôi ngắn ngủi (12 năm) nhưng ông là người thông minh, mưu lược, sáng tạo, có công lao to lớn là dẹp yên loạn lạc, xóa bỏ tình trạng cát cứ làm suy yếu đất nước, xây dựng nhà nước trung ương tập quyền đầu tiên, có đủ triều nghi phẩm phục, có quân đội hùng mạnh, pháp chế nghiêm minh. Trên cơ sở nước Đại Cồ Việt thống nhất và vững mạnh ấy, năm 989 Lê Hoàn có điểm tựa để đánh bại quân xâm lược nhà Tống, bảo vệ độc lập, chủ quyền cho non sông đất nước.

Đinh Tiên Hoàng là vị anh hùng dân tộc mở đầu và đặt nền  thống nhất quốc gia.Sự nghiệp Đinh Tiên Hoàng muôn đời còn mãi trong lòng dân tộc ta,non sông đất nước ta.

Đinh Bộ Lĩnh và thế trận trận cờ lau

Lúc còn nhỏ Đinh Bộ Lĩnh chăn trâu cho chú là Đinh Dự. Đinh Bộ Lĩnh được bọn trẻ chăn trâu cùng lứa tôn làm đầu mục (trẻ đứng đầu). Lĩnh thường bầy cho bọn trẻ bẻ hoa lau làm cờ, chia quân đánh trận giả. Trận giả nhưng diễn ra như thật (nhờ lão bộc trước đây dạy cho), thể hiện chí khí, sự tài giỏi của Đinh Bộ Lĩnh.

Sau mỗi trận tập, bọn trẻ khoanh tay làm kiệu rước Đinh Bộ Lĩnh như nghi vệ Thiên Tử. Trong lũ trẻ có mấy người cùng quê, cùng lứa tuổi, kết nghĩa anh em. Đó là: Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ, Trịnh Tú, tôn Bộ Lĩnh làm anh cả.

Sau này họ là nòng cốt của sứ quân Hoa Lư, là “Tứ trụ triều đình” khi Bộ Lĩnh lên ngôi vua.

Xem thêm  Thời kỳ Bắc Triều - Nam Triều (1527-1592)

Sau khi Ngô Vương Quyền mất, triều Ngô lục đục, bất lực. Một số quan, tướng nổi dậy cát cứ xưng hùng xưng bá, đất nước loạn lạc. Sử cũ gọi loạn 12 sứ quân

Các sứ quân: Kiều Công Hãn (Phong Châu, Phú Thọ); Nguyễn Khoan (Yên Lạc, Vĩnh Phúc); Ngô Nhật Khánh (Phú Thọ, Sơn Tây); Đỗ Cảnh Thạc (Thanh Oai, Hà Tây); Ngô Xương Xí (Thiệu Sơn, Thanh Hóa); Lý Khuê (Thuận Thành, Bắc Ninh); Nguyễn Thủ Tiệp (Tiên Sơn, Bắc Ninh); Lã Đường (Văn Giang, Hưng Yên); Nguyễn Siêu (Thanh Trì, Hà Nội); Kiều Thuận (Cẩm Khê, Phú Thọ); Phạm Bạch Hổ (Kim Động, Hưng Yên); Trần Lãm (Thái Bình)

Lúc đó, lực lượng của Đinh Bộ Lĩnh tương đối mạnh. Do khí phách và tài thao lược, nhân dân trong vùng theo về rất đông. Đinh Bộ Lĩnh nuôi ý chí dẹp loạn, thu giang sơn về một mối, thiết lập triều đình. Biết lực lượng mình còn nhỏ, Bộ Lĩnh đem lực lượng xin liên kết với sứ quân Trần Lãm (còn gọi là Trần Minh Công ở Bố Hải Khẩu – Thái Bình ngày nay).

Trần Lãm vốn là bạn đồng liêu, có nhiều ân nghĩa với cha Đinh Bộ Lĩnh, vui mừng thu nhận, tin yêu lại gả con gái cho. Nhờ đó sứ quân Trần Lãm – Đinh Bộ Lĩnh ngày càng hùng mạnh.

Khi tuổi cao sức yếu, Trần Lãm trao toàn bộ quyền bính cho Đinh Bộ Lĩnh. Thấy Bố Hải Khẩu không thuận lợi làm căn cứ dựng binh mở nghiệp lớn, Bộ Lĩnh đưa toàn bộ tướng sỹ về xây dựng căn cứ ở Động Hoa Lư[1]. Tại đây, dựa vào thế núi sông hiểm trở, Đinh Bộ Lĩnh tăng cường xây thành đắp luỹ, chiêu mộ hào kiệt, quân sỹ, nổi tiếng hùng mạnh một phương.

Bài liên quan

Thời Trịnh - Nguyễn phân tranh (1533-1788)
Thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh (1533-1788) là giai đoạn lịch...
Đọc thêm
Thời kỳ thuộc Minh (1414-1427)
Thời kỳ thuộc Minh (1414-1427) là giai đoạn lịch sử...
Đọc thêm
Tiểu sử Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh, sinh ngày 19 tháng 5...
Đọc thêm

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *