Sự kiện Lý Công Uẩn dời đô

Sự kiện Lý Công Uẩn dời đô

Sự kiện Lý Công Uẩn dời đô là việc Vua Lý Thái Tổ dời kinh đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Đại La (Hà Nội ngày nay) vào mùa thu năm 1010, đổi tên thành Thăng Long. Quyết định này dựa trên tầm nhìn chiến lược về địa thế trung tâm, thuận lợi cho việc phát triển lâu dài về chính trị, kinh tế, đồng thời đánh dấu sự chuyển mình của đất nước sang kỷ nguyên mới. 

Quá trình và lý do dời đô

  • Thời gian: Tháng 7 năm 1010, tức là mùa thu năm Canh Tuất. 
  • Địa điểm: Kinh đô mới được đặt tại Đại La, một vùng đất có vị trí địa lý trung tâm, “giữa Nam Bắc Đông Tây”, tiện về “núi sông sau trước”. 
  • Lý do:
    • Kinh đô cũ Hoa Lư không còn phù hợp với tình hình đất nước và khả năng phát triển lâu dài. 
    • Đại La có địa thế hiểm yếu, “trung tâm trời đất”, “thế rồng cuộn hổ ngồi”, phù hợp cho việc ổn định chính trị và phát triển kinh tế. 
  • Đổi tên thành Thăng Long: Sau khi dời đô, Lý Công Uẩn đặt tên cho kinh thành mới là Thăng Long (Rồng bay) theo một câu chuyện kể rằng rồng vàng đã hiện lên khi thuyền ngự của vua đi qua. 

Ý nghĩa của sự kiện

  • Phát triển quốc gia: Quyết định dời đô đã đặt nền móng cho sự phát triển của Thăng Long – Hà Nội như một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của đất nước.
  • Chuyển đổi chiến lược: Việc dời đô từ một nơi có thế phòng thủ sang một trung tâm có lợi cho phát triển lâu dài đã đánh dấu sự chuyển đổi từ thế phòng ngự sang thế tấn công.
  • Biểu tượng: Thăng Long trở thành biểu tượng cho sự vươn lên của dân tộc Việt Nam dưới triều Lý. 

Bản dịch chiếu dời đô

Chiếu dời đô

Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh 5 lần dời đô[7], nhà Chu đến đời Thành Vương 3 lần dời đô, há phải các vua thời Tam Đại ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà 2 nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.
Huống chi thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương, ở vào nơi trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.
Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?

Xem thêm  Thời kỳ phong kiến phương Bắc đô hộ lần thứ hai (43-542)

(Bản dịch của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993)

Lộ trình dời đô

Qua các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, nhiều giả thuyết được đưa ra. Các lộ trình sau đây được nhiều người đề cập:

Lộ trình thứ nhất: Đoàn thuyền của vua xuất phát từ Hoa Lư, xuôi sông Sào Khê ra sông Hoàng Long, tiếp tục xuôi sông Hoàng Long ra ngã ba Gián Khẩu, ngược sông Đáy, vòng vèo qua núi đá Hà Tây cũ đến Hát Môn, ra sông Cái xuôi về Thăng Long. Lộ trình này dài khoảng 220 km.

Với lộ trình này, các nhà nghiên cứu thấy hoàn toàn thuận lợi nhưng không khả thi vì quãng đường quá dài.

Lộ trình thứ hai: Thuyền ngược sông Đáy đến Phủ Lý, rẽ vào ngã ba sông Châu Giang – sông Nhuệ, ngược sông Nhuệ đến Chèm, ra sông Cái xuôi về Thăng Long. Lộ trình này dài khoảng 130 km, cũng hoàn toàn thuận lợi, nhưng khi gặp sông Tô Lịch chắc không đi tiếp được đến Chèm.

Lộ trình thứ ba: Ngược sông Đáy đến Phủ Lý, rẽ vào sông Châu Giang, ra sông Cái, ngược sông Cái về Thăng Long. Lộ trình này dài khoảng 170 km. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng vua Lý dời đô đi bằng đường này.

Theo cách lý giải của những người nghiên cứu sâu về vận tải thủy, trong vận tải sông, hai yếu tố cần phải nghiên cứu đầy đủ. Đó là tuyến luồng và thủy văn.

Xem thêm  Tiểu sử Đinh Bộ Lĩnh - Vua Đinh Tiên Hoàng

Những người đồng thuận với lộ trình thứ ba mới xem xét đến yếu tố luồng lạch, mà chưa xét đến yếu tố thủy văn. Theo quy luật của thời tiết, đầu mùa thu, tháng 7 âm lịch, Bắc Bộ vẫn trong mùa mưa bão.

Theo thống kê của ngành quản lý đường sông, trong những năm chưa có đập Hòa Bình, vận tốc nước trung bình mùa lũ của sông Hồng ở hạ lưu Hà Nội khoảng 2,0-2,5 m/s.

Với vận tốc nước như vậy, có những năm, một số điểm ở hạ lưu Hà Nội, đoàn tàu sông có công suất 150-180 mã lực không ngược được lên thượng lưu; khi đó ngành vận tải sông phải lập các trạm hỗ trợ sức kéo – đẩy.

Với dòng nước như vậy, vào thời điểm dời đô năm 1010, đoàn thuyền của vua quan nhà Lý dùng sức người để chèo, kéo và kể cả kết hợp với buồm thì cũng khó mà vượt được đoạn sông Cái dài khoảng 100 km để về Thăng Long.

Lộ trình thứ tư: Lộ trình này đi theo lộ trình thứ 2, nghĩa là đến Phủ Lý thì rẽ vào ngã ba sông Châu Giang – sông Nhuệ, nhưng từ sông Nhuệ không đến Chèm ra sông Cái xuôi về Thăng Long như lộ trình thứ 2. Đến Thanh Trì, thuyền rẽ vào sông Tô Lịch để về Thăng Long. Lộ trình này dài khoảng 120 km.

Tuy nhiên, một số người cho rằng lộ trình này không khả thi vì sông Nhuệ và Tô Lịch hẹp và cạn thì làm sao đi được? Sẽ là sai lầm nếu lấy hiện trạng hôm nay để áp đặt cho thực tế năm 1010.

Xem thêm  Thời kỳ thuộc Minh (1414-1427)

Đồng bằng sông Hồng 1.000 năm về trước dân cư còn thưa thớt. Sông Nhuệ, Tô Lịch không hẹp và cạn như bây giờ. Điều này đã được minh chứng qua thơ ca nói về giao thông vận tải trên sông Tô Lịch thời đó:

Sông Tô nước chảy trong ngần

Con thuyền buồm trắng chạy gần chạy xa

Thon thon hai mũi chèo hoa

Lướt đi lướt lại như là bướm gieo.

Những câu ca trên phần nào minh chứng cho sự phát triển của hệ thống giao thông đường thủy vào thời điểm bấy giờ và lộ trình này là khả thi nhất để vua Lý Công Uẩn đi thuyền dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long.

Bởi, xem xét nhiều yếu tố về tuyến luồng thì tuyến này ngắn, luồng sâu, rộng. Theo yếu tố thủy văn, tuyến này nước không chảy xiết, khi vào sông Tô Lịch nếu gặp hiện tượng nghịch thủy sẽ rất thuận lợi cho đoàn thuyền cập bến Đại La.

Bốn lộ trình được đưa ra ở đây cùng những phân tích, phần nào góp thêm cho sự tìm hiểu về lộ trình dời đô của vua Lý Công Uẩn thời xưa cũng như nhìn thấy được sự phát triển của giao thông đường thủy ở vào thời bấy giờ.

Bài liên quan

Việt Nam thời kỳ dựng nước (2000...
Thời kỳ dựng nước trong lịch sử Việt Nam, được...
Đọc thêm
Thời kỳ Nhà Hồ (1400-1407)
Thời kỳ Nhà Hồ (1400-1407) là giai đoạn lịch sử...
Đọc thêm
Thời kỳ Bắc Triều - Nam Triều...
Thời kỳ Bắc Triều - Nam Triều (1527-1592) là giai...
Đọc thêm