Bốn vị tướng đánh trận giỏi nhất việt nam

Bốn vị tướng đánh trận giỏi nhất việt nam

Bốn vị tướng gắn liền với câu nói “Nhất Tấn, nhì An, tam Đan, tứ Chơn” là những vị tướng đánh trận giỏi nhất của Quân đội Nhân dân Việt Nam, bao gồm: Đại tướng Lê Trọng Tấn, Thượng tướng Nguyễn Hữu An, Thiếu tướng Hoàng Đan, và Thượng tướng Nguyễn Chơn. Đây là những vị tướng gắn liền với các trận mạc và đã góp phần quan trọng vào chiến thắng của quân đội ta.

Dưới đây là thông tin chi tiết về từng vị tướng:

  1. Đại tướng Lê Trọng Tấn (Nhất Tấn): Ông được xem là một trong những vị tướng đánh trận giỏi nhất Việt Nam qua các thời đại, đặc biệt là trong các chiến dịch kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. 
  2. Thượng tướng Nguyễn Hữu An (Nhì An): Ông nổi tiếng với vai trò tư lệnh quân đoàn trong các chiến dịch lớn, trong đó có Chiến dịch Hồ Chí Minh
  3. Thiếu tướng Hoàng Đan (Tam Đan): Là một vị tướng chỉ huy trong các trận đánh quan trọng. 
  4. Thượng tướng Nguyễn Chơn (Tứ Chơn): Là vị tướng còn lại trong bộ tứ danh tiếng này, cũng là người có tài năng xuất sắc trong chiến đấu. 

“Tứ Đại Sư Đoàn Trưởng” là tên gọi khác cho bốn vị tướng này, những người đã trở thành biểu tượng của sự tài ba và dũng mãnh trên chiến trường của Quân đội Nhân dân Việt Nam. 

Đại tướng Lê Trọng Tấn

Đại tướng Lê Trọng Tấn, tên thật là Lê Trọng Tố (1-10-1914 / 5-12-1986), bí danh Ba Long, sinh tại làng Nghĩa Lộ, xã Yên Nghĩa, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây (nay là phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông, TP Hà Nội) trong một gia đình trí thức. Yên Nghĩa là xã có truyền thống yêu nước cũng như có truyền thống cách mạng, thời kỳ trước cách mạng, nhân dân xã đã nuôi giấu nhiều nhà cách mạng, mà sau này họ trở thành những lãnh đạo cao cấp của Việt Nam như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Trần Đăng Ninh, Trần Quốc Hoàn… Đây chính là An toàn khu của Xứ ủy Bắc Kỳ thời tiền khởi nghĩa.

Đại tướng Lê Trọng Tấn (Nhất Tấn)

Ông được mệnh danh là tướng trận, tướng tấn công và thường ví ông như Nguyên soái Zhukov của Quân đội Liên Xô. Các nhà khoa học quân sự và quân đội anh em kính nể ông về tài năng, đức độ. Ông đánh giá đúng tình hình, biết địch biết ta, thể hiện tài năng của người chỉ huy trận mạc trăm trận trăm thắng. Ông là hình mẫu của quân lệnh như sơn, thẳng thắn, nghiêm túc, bao dung, biết đánh, nhưng cũng biết dừng để bảo toàn lực lượng.

Ông đi đến đâu, chỉ huy chiến dịch nào, mũi tiến công vào đâu, tướng lĩnh, cán bộ, chiến sĩ của các quân đoàn do ông chỉ huy đều đoàn kết một lòng một dạ tin tưởng, vững tâm vào tài năng, thông minh, sáng tạo, nhanh nhạy, quyết đoán cho từng trận đánh. Kẻ thù nghe tin tướng Ba Long chỉ huy chiến dịch nào đều sợ hãi, hoảng loạn, co cụm, bạc nhược và tê liệt sức chiến đấu, đó là uy quyền của một dũng tướng. Thắng lợi trong những trận đánh, tất yếu có sự hy sinh đổ máu. Ông không bao giờ chấp nhận câu nói: “Trận này ta thiệt hại không đáng kể”. Vì đây là sự hy sinh xương máu của các chiến sĩ.

Cuộc đời ông đã có mặt hầu hết ở các chiến trường nóng bỏng và đã chỉ huy hàng trăm trận đánh trên cả 2 miền Nam – Bắc. Năm 1950, Đại đoàn 312 được thành lập, ông giữ chức Đại đoàn trưởng đầu tiên khi mới 36 tuổi. Dấu ấn 2 mốc son lịch sử của ông năm 1954, khi ông là Đại đoàn trưởng 312 chỉ huy tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, đánh phía Đông vào Mường Thanh, bắt sống tướng De Castries. Năm 1975, ông là Tư lệnh trưởng, chỉ huy các binh đoàn đánh phía Đông vào Dinh Độc Lập, cơ quan đầu não của ngụy quyền Sài Gòn, bắt sống tướng Dương Văn Minh buộc phải đầu hàng vô điều kiện.

Xem thêm  Ai là Nữ anh hùng dân tộc nổi tiếng với câu nói "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh"

Thượng tướng Nguyễn Hữu An

Thượng tướng Nguyễn Hữu An (10/1926 – 9/4/1995), sinh ra trong một gia đình dân nghèo yêu nước tại xã Trường Yên, huyện Gia Viễn (nay là xã Trường Yên, huyện Hoa Lư), tỉnh Ninh Bình. Tháng 8/1945, đồng chí gia nhập quân đội.

Thượng tướng Nguyễn Hữu An (Nhì An)

Năm 1955, đồng chí Nguyễn Hữu An được bổ nhiệm làm Tham mưu phó Sư đoàn 316. Đồng chí đã cùng tập thể lãnh đạo, chỉ huy sư đoàn tiến hành chấn chỉnh, xây dựng lực lượng, ổn định tổ chức biên chế, trang bị, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ đất nước. Tháng 6/1957, đồng chí được cử làm Tham mưu phó Quân khu Tây Bắc. Trên cương vị mới, đồng chí đã có những đóng góp quan trọng vào việc xây dựng lực lượng vũ trang từ cấp quân khu đến các tỉnh, huyện góp phần bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa.

Trước tình hình Mỹ leo thang chiến tranh, tháng 9/1964, đồng chí Nguyễn Hữu An vào Quân khu 4 nhận chức Tư lệnh Sư đoàn 325, rồi gấp rút chấn chỉnh lực lượng, bổ sung trang bị vào miền Nam chiến đấu. Vào đến Tây Nguyên, ông được bổ sung vào Đảng ủy mặt trận, đảm nhiệm trọng trách Phó Tư lệnh Mặt trận B3. Tháng 11/1965, ông trực tiếp chỉ huy trận Ia Đrăng tiêu diệt hoàn toàn 1 tiểu đoàn và làm thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn kỵ binh Mỹ – làm thay đổi cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Sau đợt Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968), đồng chí Nguyễn Hữu An được Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Mặt trận B3 giao nhiệm vụ làm Tham mưu trưởng Mặt trận B3. Tháng 8/1968, theo lệnh triệu tập của Bộ Tổng Tư lệnh, đồng chí Nguyễn Hữu An cùng các đồng chí Hoàng Minh Thảo, Đặng Vũ Hiệp ra miền Bắc để báo cáo tình hình chiến trường. Tháng 10/1968, đồng chí Nguyễn Hữu An được bổ nhiệm chức Tham mưu trưởng Quân khu Hữu Ngạn. Nhưng chỉ hơn hai tháng sau (1/1969), do yêu cầu tăng cường cán bộ chỉ huy có kinh nghiệm tác chiến trên chiến trường cho các đơn vị chủ lực, đồng chí được điều về làm Tư lệnh Sư đoàn 308. Đầu tháng 2/1971, ngay khi địch vừa triển khai mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 ra đường 9 – Nam Lào Tư lệnh Nguyễn Hữu An lập tức chỉ huy sư đoàn hành quân bằng phương tiện cơ giới của Đoàn 559 hành quân cấp tốc vào chiến trường, cùng toàn mặt trận đập tan cuộc hành quân của địch.

Khi cuộc chiến đấu giữa ta và địch ở Quảng Trị diễn ra giằng co, quyết liệt, tháng 7/1972, đồng chí được điều vào nhằm giữ vững vùng giải phóng và thành cổ Quảng Trị. Từ giữa tháng 9/1972, ta chủ động rút khỏi Thành cổ Quảng Trị và vùng phụ cận. Đồng chí Nguyễn Hữu An được điều về làm Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Mặt trận Trị – Thiên, chỉ huy bộ đội chặn đứng các cuộc hành quân của địch như: Lam Sơn 72A, Sóng Thần 9, Sóng Thần 36, Sóng Thần 45 và Sóng Thần 18. Tháng 5/1974, đồng chí Nguyễn Hữu An được cử đi học ở Liên Xô. Đầu năm 1975, trở về nước đồng chí Nguyễn Hữu An được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân đoàn 2. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, dưới sự chỉ huy của ông, Quân đoàn 2 lần lượt giải phóng Huế, đập tan căn cứ liên hợp quân sự Đà Nẵng, sau đó đưa bộ đội hành quân “thần tốc” gần 1.000km để tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Xem thêm  Phạm Ngũ Lão là ai?

Từ năm 1977-1981, ông tiếp tục chỉ huy Quân đoàn 2 tham gia bảo vệ biên giới phía Tây Nam của Tổ quốc. Sau đó, ông tiếp tục giữ các chức vụ quan trọng trong Quân đội như: Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng, quyền Tư lệnh Quân khu 2 (1984-1987); Giám đốc Học viện Lục quân (1988-1991); Giám đốc Học viện Quân sự cấp cao (tháng 12/1994 là Học viện Quốc phòng) (1991-1995).

Thiếu tướng Hoàng Đan

Thiếu tướng, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Hoàng Đan (28/2/1928 – 4/12/2003), “là một vị tướng chiến trận. Nơi nào có cuộc chiến ác liệt nhất là có mặt tướng Hoàng Đan. Ông chiến đấu dũng cảm và chỉ huy có mưu trí. Ông đã tham gia chỉ huy nhiều trận đánh nổi tiếng”

Thiếu tướng Hoàng Đan (Tam Đan)

Tháng 3/1945, theo chân anh trai, Hoàng Đan gia nhập Mặt trận Việt Minh,  được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành huyện Nghi Lộc. Tháng 6/1945, ông được cử phụ trách tổ Việt Minh của tổng Vân Trình.

Năm 1946, ông được cử đi học tại trường Quân sự Chiến khu 4 (nay thuộc Quân khu 4) đóng tại Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh) và được kết nạp chính thức vào Đảng Cộng sản Việt Nam.

Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Hoàng Đan được điều động vào chiến trường Bình – Trị – Thiên, bắt đầu tham gia chiến đấu bên bờ sông Bến Hải. Từ một người lính, Hoàng Đan được giao làm Trung đội trưởng rồi Chính trị viên Đại đội, Tiểu đoàn trưởng, Trung đoàn phó. Trong kháng chiến chống Pháp, ông đã tham gia chiến đấu và chỉ huy nhiều trận đánh ác liệt như trận chặn đánh địch trên đường từ Cam Lộ về Đông Hà, chặn đánh địch ở Gio Linh, chống càn ở Nam Vĩnh Linh (Quảng Trị), chiến dịch Hòa Bình, chiến dịch Thu Đông, Thượng Lào rồi chiến dịch Điện Biên Phủ.

Sau khi miền Bắc được giải phóng (1954), ông được điều về làm công tác giảng dạy tại trường Trung cao Quân sự (tiền thân của Học viện Quốc phòng). Sau đó, ông được cử sang học tập tại Liên Xô và trở về làm Chủ nhiệm khoa Bộ binh thuộc Học viện Quân chính (nay là Học viện Lục quân). 

Năm 1965, cuộc kháng chiến chống Mỹ bước vào giai đoạn cam go, quyết liệt, ông được điều động vào chiến trường, giữ chức Phó Tư lệnh rồi Tư lệnh Sư đoàn 304B, chỉ huy các chiến dịch Khe Sanh (1968), chiến dịch phản công địch ở Đường 9 – Nam Lào (1971) và chiến dịch Quảng Trị (1972).

Xem thêm  Thời kỳ phong kiến phương Bắc đô hộ lần thứ ba (603-939)

Tháng 11/1973, Hoàng Đan được thăng quân hàm Đại tá và được bổ nhiệm làm Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân đoàn 1.

Tháng 6/1974, Binh đoàn Hương Giang (Quân đoàn 2) được thành lập, ông được điều sang làm Phó Tư lệnh Quân đoàn. Ông đã trực tiếp chỉ huy trận Thượng Đức (Quảng Nam), giúp quân ta giành lại ưu thế tại cao điểm này. Trong cuộc Tổng tiến công Xuân 1975, ông đã chỉ huy Quân đoàn 2 tham gia chiến dịch Huế – Đã Nẵng. 

Ngày 30/4/1975, Lữ đoàn 203 thuộc Quân đoàn 2 đã vào đến Dinh Độc lập, tham gia bắt sống toàn bộ nội các của Dương Văn Minh, buộc chúng phải đầu hàng vô điều kiện.

Thượng tướng Nguyễn Chơn

Thượng tướng Nguyễn Chơn sinh vào ngày 1 tháng 1 năm 1927 – mất ngày 30 tháng 12 năm 2015.

Thượng tướng Nguyễn Chơn (Tứ Chơn)

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đồng chí là đoàn viên thanh niên xã; ngày 15-2-1946, đồng chí nhập ngũ, là chiến sĩ Tiểu đoàn 19, tỉnh Quảng Nam, tham gia chiến đấu chống thực dân Pháp ở chiến trường miền Trung Nam Bộ (Khu 5); ngày 1-11-1949, đồng chí vinh dự được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.

Từ năm 1949 đến tháng 4-1956, đồng chí giữ các chức vụ Tiểu đội trưởng; Trung đội trưởng, Đại đội 1, Tiểu đoàn 20, Trung đoàn 210, Sư đoàn 305.

Tháng 5-1956 đến tháng 4-1958, đồng chí được cử đi học tại Trường Sĩ quan Lục quân (Khóa 10).

Tháng 5-1958 đến tháng 3-1959, đồng chí giữ chức Đại đội phó Đại đội 1, Tiểu đoàn 9, Sư đoàn 305.

Tháng 4-1959 đến tháng 1-1965, đồng chí là cán bộ tham mưu, Trung đoàn 1 (Trung đoàn Ba Gia), Khu 5.

Tháng 2-1965 đến tháng 7-1970, đồng chí giữ các chức vụ Tiểu đoàn trưởng, Tiểu đoàn 9; Trung đoàn phó-Tham mưu trưởng, Trung đoàn 1, Sư đoàn 2; Tham mưu phó, Tham mưu trưởng, rồi Phó tư lệnh Sư đoàn 2, Khu 5.

Tháng 8-1970, đồng chí được cử ra Bắc công tác và sau đó tháng 10-1970 được điều trở lại chiến trường Khu 5.

Tháng 10-1970 đến tháng 12-1976, đồng chí giữ chức Tư lệnh Sư đoàn 2, Sư đoàn 711, Khu 5.

Tháng 1-1977 đến tháng 2-1979, đồng chí được cử đi học bổ túc văn hóa, sau đó được đi học tại Học viện Nguyễn Ái Quốc.

Tháng 3-1979 đến tháng 11-1979, đồng chí giữ chức Phó tư lệnh Quân đoàn 2.

Tháng 12-1979 đến tháng 11-1983, đồng chí giữ chức Tư lệnh Quân đoàn 2.

Từ tháng 9-1982 đến tháng 11-1983, đồng chí được cử đi học tại Học viện quân sự Vôrôsilôp (Liên Xô).

Tháng 12-1983 đến tháng 11-1984, đồng chí giữ chức Phó tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân khu 5.

Từ tháng 12-1984 đến tháng 7-1987, đồng chí giữ chức Quyền Tư lệnh Quân khu 5 rồi Tư lệnh Quân khu 5, Phó bí thư Đảng ủy quân khu.

Tháng 8-1987 đến tháng 11-1993, đồng chí giữ chức Phó tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tháng 12-1993 đến tháng 12-1998, đồng chí giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng.

Bài liên quan

Thời kỳ Nhà Đinh (968-980)
Thời kỳ Nhà Đinh (968-980) là giai đoạn lịch sử...
Đọc thêm
Tiểu sử Trần Hưng Đạo
Trần Hưng Đạo, tên thật là Trần Quốc Tuấn, là...
Đọc thêm
Giới thiệu đôi nét về tiểu sử...
Vua Ngô Quyền (898-944) là một vị vua, nhà quân...
Đọc thêm