Trần Hưng Đạo, tên thật là Trần Quốc Tuấn, là một nhà quân sự, nhà chính trị kiệt xuất thời nhà Trần. Ông nổi tiếng với vai trò chỉ huy quân đội Đại Việt đánh tan ba lần quân xâm lược Mông-Nguyên, bảo vệ độc lập dân tộc. Ông còn là tác giả của nhiều tác phẩm quân sự có giá trị, như “Binh thư yếu lược” và “Hịch tướng sĩ”
Thân thế và gia đình:
- Trần Hưng Đạo là con trai thứ ba của An Sinh vương Trần Liễu, anh trai của vua Trần Thái Tông.
- Ông có thể đã sinh năm 1228, 1230 hoặc 1231, tại thôn Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay thuộc thành phố Nam Định).
- Mẹ ông là bà Trần Thị Nguyệt (hay Thiện Đạo quốc mẫu), kế thất của Trần Liễu.
- Ông được nuôi dưỡng và giáo dục bởi công chúa Thụy Bà, em gái của Trần Liễu.
Sự nghiệp quân sự:
- Trần Hưng Đạo được đánh giá là một nhà quân sự tài ba, với khả năng lãnh đạo, chiến lược và chiến thuật xuất sắc.
- Ông đã chỉ huy quân đội đánh bại quân Mông-Nguyên trong ba lần xâm lược (1257, 1285, 1288), góp phần quan trọng vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền của Đại Việt.
- Ông được phong làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh toàn quân và trực tiếp chỉ huy các trận đánh lớn.
- Sau khi qua đời, ông được nhân dân tôn sùng là Đức Thánh Trần và lập đền thờ ở nhiều nơi, đặc biệt là đền Kiếp Bạc (Hải Dương).
Tác phẩm:
- Trần Hưng Đạo là tác giả của nhiều tác phẩm quân sự có giá trị, trong đó có:
- “Binh thư yếu lược”: Một bộ sách binh pháp, tổng kết kinh nghiệm quân sự của ông.
- “Vạn Kiếp tông bí truyền thư”: Một tác phẩm về nghệ thuật quân sự, được coi là bí kíp gia truyền của dòng họ Trần.
- “Hịch tướng sĩ”: Bài hịch nổi tiếng kêu gọi tướng sĩ đoàn kết, quyết tâm đánh giặc, thể hiện lòng yêu nước và tài năng văn chương của ông.
Tóm lại, Trần Hưng Đạo là một nhà quân sự, nhà chính trị kiệt xuất, một biểu tượng của lòng yêu nước, ý chí kiên cường của dân tộc Việt Nam.
Trần Hưng Đạo là một nhà quân sự, nhà chính trị kiệt xuất
Theo truyền thuyết, từ nhỏ Trần Quốc Tuấn đã ham thích trò chơi đánh trận, sáu tuổi biết làm thơ. Lớn lên, học vấn rất uyên bác, vừa giỏi văn chương vừa hiểu thấu lục thao tam lược, cưỡi ngựa, bắn cung đều thành thạo. Năm 1257, quân Nguyên sang xâm lược nước ta lần đầu, ông được cử cầm quân giữ biên thuỳ phía Bắc. Ba chục năm sau, trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1287-1288), ông lại được đề bạt làm Tiết chế Thống lĩnh toàn quân và đã giành thắng lợi lẫy lừng, đánh tan quân Nguyên ra khỏi bờ cõi đất nước.

Là một vị tướng tài kiêm văn võ, biết đánh giá đúng vai trò quan trọng của dân- nền tảng của xã tắc- và của quân- lông cánh của chim hồng chim hộc- Trần Hưng Đạo đã biết đề ra một đường lối quân sự ưu việt, có tính chất nhân dân, mà tiêu biểu là hai cuộc rút lui chiến lược khỏi Kinh thành Thăng Long, tránh cho nhà Trần những tổn thất lớn, và tạo thời cơ bẻ gãy lực lượng của địch. Những kế hoạch làm vườn không nhà trống trên khắp các nẻo đường mà giặc đi qua, những hoạt động phối hợp nhịp nhàng giữa hương binh và quân đội chính quy của nhà nước, những trận phục kích lừng danh như trận Bạch Đằng đã làm cho tên tuổi của ông sống mãi. Ngay đến kẻ thù cũng phải nhắc đến mấy chữ Hưng Đạo Vương với niềm kính trọng.
Bên cạnh tư tưởng quân sự kiệt xuất, Trần Quốc Tuấn còn nêu một tấm gương về lòng trung nghĩa sáng suốt, biết gạt bỏ mọi hiềm khích riêng để đoàn kết các tôn thất và tướng tá trong triều nhằm phò vua giúp nước, đánh bại kẻ thù. Sử sách từng ghi lại câu nói nổi tiếng của ông với vua Trần Thánh Tông, khi đất nước đang lâm vào tình thế nghìn cân treo sợi tóc: “Xin bệ hạ hãy chém đầu tôi trước rồi sau sẽ hàng”. Cho đến trước khi chết ông vẫn ân cần dặn vua Trần Anh Tông trong mọi chính sách của nhà nước phong kiến phải biết “Nới sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc”. Ông không những là một công thần của nhà Trần mà còn là một Anh hùng lớn của dân tộc.
Ông thường tiến cử nhiều người có tài ra giúp nước, lập nên công nghiệp lớn như: Phạm Ngũ Lão, Dã Tượng, Yết Kiêu… bất kể họ thuộc thành phần xã hội nào.
Trần Quốc Tuấn mất ngày 20 tháng Tám năm Canh tý (3-IX-1300) tại Vạn Kiếp. Sau khi mất, ông được triều đình phong tặng Thái Sư Thượng Phụ Thượng Quốc Công, Nhân võ Hưng Đạo Đại Vương. Đền thờ ông tại Vạn Kiếp gọi là “Đền Kiếp Bạc”.
Tác phẩm:
– Binh gia diệu lý yếu lược (Còn gọi là Binh thư yếu lược).
– Vạn Kiếp tông bí truyền thư.
– Dụ chư tỳ tướng hịch văn (Còn gọi là Hịch tướng sĩ). Đây là bài hịch viết vào khoảng trước cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai, nhằm kêu gọi tướng sĩ chăm lo luyện tập và nghiên cứu binh thư để kịp thời đối phó với âm mưu xâm lược của giặc. Bài hịch chứng tỏ tài năng văn chương trác luyện và nhiệt tình yêu nước cháy bỏng của Trần Quốc Tuấn.
Ông được xếp vào danh sách Mười Đại nguyên soái Thế giới kiệt xuất nhất.